
Tôi đã có 3 khoảnh khắc tuyệt đẹp ở Đà Lạt trong mấy ngày vừa rồi.
Giấc mộng bên hồ

Chúng tôi lái xe đi thăm hồ Tuyền Lâm. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy một cái hồ rộng đến thế, và đẹp đến thế, là ở Scotland. Đã là chuyện của mười mấy năm trước. Tôi vốn rất thích những phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, sông nước mênh mông, nhưng lại là một người vô cùng không thích đi phượt. Thế nên đối với một người như tôi, thì hồ Tuyền Lâm có lẽ là một địa điểm đi chơi hoàn hảo: khung cảnh thiên nhiên tương đối hùng vĩ, cây cối thì rậm rạp, mặt nước thì mênh mông, cảnh sắc nói chung là vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên, không bị con người khai thác quá lố. Thế nhưng, chạy xe từ thành phố ra lại chỉ mất có hơn 15 phút, đường kè quanh hồ thì là đường nhựa rất mịn. Nói chung là một địa điểm tuyệt vời dành cho một kẻ vừa yêu thích thiên nhiên nhưng lại không hề muốn chịu khổ như tôi.
Chúng tôi đến hồ Tuyền Lâm vào một buổi sáng tương đối âm u, trời không nắng cũng không mưa – lại là thứ thời tiết hoàn hảo đối với tôi, một kẻ không chịu được nắng nhưng cũng chẳng thích dầm mưa, lúc nào cũng chỉ mong trời mát mẻ, gió nhè nhẹ hiu hiu. Lòng vòng quanh hồ một hồi, khéo làm sao chúng tôi lại chọn ăn trưa ở một cái quán có lối đi xuống tận mép nước. Lúc chụp bức ảnh ở tận cái mép nước không có bờ cũng chẳng có kè này tôi đã vô cùng bồi hồi, cảm thấy như mình chính là một nhân vật trong một bộ phim cổ trang vậy, đứng bên bờ của một cái hồ từ thời cổ đại nào đó – chứ bạn nghĩ xem, bây giờ kiếm đâu ra một cái hồ ở gần thành phố mà còn không có bờ, không có kè, mà lại có thể đứng ngay cạnh mép nước một cách thoải mái và an toàn như thế này?
Cũng vào lúc đó, tôi nhớ lại cái lần mình cũng đứng trước phong cảnh hùng vĩ của hồ Loch trong chuyến đi chơi vòng quanh Scotland một mình. Lúc đó tôi đã cảm thấy cô đơn và nhỏ bé đến thế nào. Thiên nhiên hùng vĩ khi đó đã khiến tôi cảm thấy ngạt thở đến thế nào. Nhìn lại lúc này, người yêu tôi thì đang quay trái quay phải chọn góc chụp hình cho tôi. Ở bên phải, bên trái, đằng xa, là một vài người bạn cũ, vài người bạn mới quen, í ới gọi nhau, hớn hở chụp hình cùng nhau. Gió hồ thổi khá lạnh, khi đó cơn mưa đã như muốn ụp xuống, mây đen lởn vởn đầy trời. Thế mà lòng tôi lại vô cùng thư thái và ấm áp. Thì ra, khi người ta không còn phải cô đơn đứng trước thiên nhiên hùng vĩ, cái cảm giác lại nhàn nhã và thoải mái, tự tin đến thế. Cơ thể tôi như có một dòng điện nhè nhẹ chạy qua, toàn thân trở nên phấn chấn, vui vẻ đến khác thường. Cũng không biết có phải vì cái nhận thức này tác động không, mà tôi chợt thấy hồ Tuyền Lâm đẹp hơn rất nhiều.
Bữa trưa đáng ra diễn ra ngoài trời ngay bên bờ hồ lại phải chuyển vào trong vì ngại cơn mưa bất chợt. Nhưng may mắn thay, chúng tôi được đưa vào một căn phòng riêng, gần giống như một cái chòi được dựng trên một con dốc nhỏ dẫn xuống mặt hồ, bốn bề là kính, thành ra lại càng có cảm giác ngồi ăn ngay trên mặt nước. Bữa ăn trưa vô cùng thanh đạm, một con cá tầm 3 kí được chia làm hai, thịt cá thì ướp rồi đem nướng trên bếp than, còn xương và đầu cá mang đi nấu thành hai nồi lẩu, ăn cùng với 2 đĩa rau xào lớn, một đĩa rau rừng và một đĩa đọt su su. Tại sao phải kể lể rất rõ ràng như vậy, vì nếu ai biết tôi thì đều biết, tôi theo Đạo Thịt, thờ Thần Thịt. Một bữa ăn mà không có thịt heo, hay thịt bò, hay tối thiểu là thịt gà, thì tôi sẽ không động đũa. Vậy nhưng bữa trưa ngày hôm đó, dù chỉ có mỗi cá với rau, tôi lại đã ăn rất ngon miệng. Cá nướng đậm đà, ngọt vị và thơm phức, đối lập với nồi lẩu cá chua chua, thanh thanh. Chen vào giữa là hương vị hoang dại của rau rừng xào tái. Bữa ăn đơn giản nhưng vừa rất đa dạng về hương vị, lại vừa có tính kích thích vị giác rất cao.
Bên ngoài cửa kính là bầu trời và mặt nước mênh mông, bên trong cửa kính lại là không gian hẹp của một căn chòi gỗ mộc mạc. Bên ngoài là gió mang theo hơi nước thổi lạnh nổi da gà, bên trong lại là hơi ấm của lò than mang theo mùi cá tươi và gia vị đang nướng chín hấp dẫn đến tứa nước miếng. Bên ngoài là sự tĩnh lặng đến hoang vu của thiên nhiên, bên trong lại là những tiếng cười nói, đùa vui của một nhóm người hiền lành không toan tính. Những sự đối lập đó như có, như không, bất chợt mang đến cho tôi cảm giác của “hiệu ứng cái kén”. Tôi thấy mình như được dịu dàng ôm ấp, chiều chuộng vuốt ve, chầm chậm đưa tôi vào một giấc mộng đẹp.
Bữa trưa ngày hôm đó đối với tôi, quả là một giấc mộng đẹp. Tôi đã có một trải nghiệm rất độc đáo, một giấc mơ trưa rất tuyệt vời, rất đáng nhớ bên hồ Tuyền Lâm. Đó chính là khoảnh khắc tuyệt đẹp đầu tiên của tôi ở Đà Lạt.
Cho những bạn nào muốn tham khảo trải nghiệm của tôi. Nhà hàng chúng tôi ăn trưa là một nhà hàng rất bình dân tên là Hoa Chung. Cái chòi chúng tôi ngồi ăn là bàn số 4. Chúc bạn may mắn.
Chiều lên đỉnh núi uống trà

Ngay sau bữa trưa đẹp như mộng bên hồ Tuyền Lâm, bạn tôi rủ. Lên núi xem đất không? Vốn là chuyến đi không có kế hoạch, chẳng có dự định gì cụ thể, làm gì mà chả được. Thì đi.
Thế là chúng tôi quay xe chạy lên Tà Nung. Quãng đường đi lên Tà Nung rất đẹp, đường nhựa trải mịn căng, còn chạy qua làng hoa Vạn Thành khá đáng yêu nữa. Gần đến mất cái điểm khu du lịch bắt mây gì đó nổi tiếng ở Tà Nung thì xe chúng tôi đột ngột chuyển hướng. Chúng tôi chạy vào một con đường xuyên rừng, có khúc đã đổ bê tông, có khúc lại là đường đất. Lổn nhổn, xóc nẩy, bùn lầy, thôi thì đủ cả. Lên dốc, xuống đèo, một bên là vực sâu. Tôi, khốn nỗi lại là thằng lái xe, và đối với một cậu ấm tuyệt đối chỉ chấp nhận lái xe đường thành phố như tôi thì chuyến đi này đúng là một cực hình, một sự tra tấn, cả về thể xác lẫn tinh thần.
Sau gần nửa tiếng nhảy nhót tung cả đít trên con đường đèo thì chúng tôi cuối cùng cũng lên tới đỉnh một ngọn núi nhỏ. Tôi dứt khoát không xuống khỏi xe, chỉ muốn nằm lại trong xe, bật điều hoà max và nghỉ ngơi một chút. Nhưng rồi, qua cửa kính, tôi nhìn thấy một thứ khiến tôi phải bật dậy, nhảy ra khỏi xe và leo lên con dốc nhỏ để đến với nó.
Ở một mỏm đất bằng phía trên cao kia, ai đó, hẳn là ông chủ của mảnh đất, đã cho dựng một cái sân khấu bằng gỗ – gọi là sân khấu vì nó là một cái hộp gỗ cao khoảng 30 phân và rộng khoảng chừng 5 mét vuông, giống như một cái sân khấu nhỏ trong một quán bar vậy đó. Cái sân khấu đó có khoảng 3/4 diện tích là nằm trên cái mỏm đất cao đó, còn 1/4 chìa ra ngoài, trông giống như một cái khán đài, đứng ở dưới nhìn lên, có cảm giác như đó chính là cái khán đài vip nhất, có vị trí đẹp nhất, để nhìn xuống bất cứ màn trình diễn nào bên dưới. Và khi tôi đặt chân lên nó, nhìn xuống dưới… Một cảm giác thực sự bàng hoàng. Thu vào trong tầm mắt tôi là một khung cảnh rừng núi bạt ngàn và hùng vĩ, xanh ngắt một màu, và kì diệu thay, tất cả đều như thấp hơn, nhỏ hơn, cúi mình trước cái khán đài nơi tôi đang đứng. Người dựng nên cái khán đài đó quả thật đã quá khéo léo, từ việc chọn địa điểm cho đến bố cục khán đài, khiến cho người đứng trên nó có cảm giác như mình đang đứng lơ lửng trên một đám mây, nhìn xuống toàn bộ khung cảnh núi rừng bên dưới bằng con mắt của một bề trên, một người sở hữu. Và bởi vậy, tuy con người thật nhỏ bé trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nhưng lại không hề cảm thấy yếu ớt, ngược lại, lại cảm thấy vô cùng tự tin, vô cùng sảng khoái, vô cùng thư thái.
Trên cái sân khấu gỗ nhỏ đó có bầy một bộ bàn ghế gỗ cổ điển đã bạc phếch màu sơn, tuy cũ kĩ nhưng lại cực kì phù hợp với phong cảnh thiên nhiên hoang dã xung quanh. Thẩm mỹ của ông chủ này quả thực đáng ngưỡng mộ – ví dụ ở đây mà bầy một bộ bàn ghế nhựa hay một bộ bàn ghế inox (rõ ràng nhẹ hơn, dễ bê lên hơn, cũng dễ phơi gió mưa hơn) thì thôi, đúng là hỏng bét cả. Rồi họ mang lên một chúng tôi một ấm trà nấu lá trà tươi với gừng, vừa thơm vừa chát mà uống vào đến họng thì ngọt lịm, và mấy quả bơ 034 vừa chín tới mới hái trên cây, cuống vẫn còn xanh ngắt.
Tôi ngồi đó, uống trà tươi, nhìn xuống những quả núi nhỏ xung quanh, cảm thấy thời gian như đã ngừng lại, và mình sẵn sàng quên đi cả thế giới. Tôi chợt nghĩ, đây có phải chính là cái cảm giác của thằng cha Gia Cát Lượng ngày xưa, khi hắn bỏ lên núi dựng một túp lều tranh, ngày ngày ngồi uống trà, nhìn xuống, và cảm thấy vừa phóng khoáng, vừa đủ đầy, đến mức không ai mời được hắn xuống núi nữa hay không? Bởi vì ngay lúc đó tôi cũng đã cảm thấy thế, cảm thấy đủ đầy đến mức không còn một nhu cầu gì khác.
Thật buồn cười, khi đi lên thì tôi ưỡn ẹo bỉ bôi, đến khi rời nó để trở về cuộc sống thì tôi lại vô vàn luyến tiếc. Và vì thế, nó đã trở thành kí ức, khoảnh khắc tuyệt đẹp thứ hai của tôi trong chuyến đi Đà Lạt lần này: cái buổi chiều om nắng ngồi uống trà tươi trên đỉnh núi.
Cỗ máy thời gian giữa lòng thành phố

Trong mấy ngày ở Đà Lạt, tôi có ghé một vài quán xá của thành phố này. Đà Lạt thì quá nổi tiếng với rất nhiều quán cafe và quán ăn độc lạ rồi, dù gì cũng là thành phố du lịch. Thế nhưng để lại ấn tượng trong tôi thì lại chẳng có mấy.
Xem nào, tôi từng đi một quán tên là Nhà Bên Rừng, đi Đà Lạt mà, phải kiếm mấy quán có đặc trưng địa hình địa phương mới thú vị chứ. Quán khá xinh, là một căn nhà gỗ xây cheo leo trên một mỏm núi nhỏ nhìn xuống thung lũng phía dưới, đáng ra phải rất lãng mạn, cũng phải mang lại cảm giác hào hùng của việc ngồi uống trà trên đỉnh núi mới phải. Đáng tiếc là cái thung lũng bên dưới khu vực này lại quá xấu xí và lộn xộn, view quả thực không có chút nào hấp dẫn. Đồ uống của quán thì dở tệ, và thái độ phục vụ của nhân viên thì như muốn đuổi khách vậy. Đường vào quán là một con đường rừng hiểm hóc, đi khá mất công. Cuối cùng cảm thấy phí công.
Rồi tôi cũng đi uống trà chiều ở khách sạn Dalat Palace. Một chiếc khách sạn cổ được bảo tồn rất tốt, với khu vườn đẹp như thuộc về những toà lâu đài Châu Âu vậy. Bối cảnh quả thật vừa lãng mạn, vừa mê hồn, ngồi trên cao nhìn xuống hồ Xuân Hương, rất lung linh. Nhưng chất lượng thưởng thức thì lại có chút quê mùa. Khách uống nước được phục vụ ở ngoài ban công, vốn là địa điểm mấu chốt để có được cái view đẹp, nhưng đi kèm là những bộ bàn ghế thấp kiểu sofa khá cổ lỗ và thô kệch làm cho không gian của cái ban công bên hông khách sạn đó trở nên lạc quẻ với toàn bộ tổng thể khách sạn, và cũng khiến khách hàng như tôi cảm thấy không thoải mái khi ngồi ở đó. Cùng với một chiếc menu vừa dở vừa mắc và chất lượng phục vụ tầm 3 sao, Dalat Palace thay vì mang lại cho tôi cảm giác hoài cổ thì lại mang đến cảm giác lạc hậu. Thật đáng tiếc.
Streetfood thì tôi có đi ăn bánh ướt lòng gà, bánh mỳ xíu mại chén, bún bò. Tất cả đều chỉ ở mức độ tạm được. Nhà hàng thì tôi có đi ăn một nhà hàng Ý mà tôi chọn vì bị ấn tượng bởi vẻ ngoài cực kì châu Âu của nó. Ẩn mình trên một con ngõ dốc giữa phố, nó nhỏ nhắn, xinh xắn, sơn tuyền một màu trắng rất Địa Trung Hải, bên ngoài còn bày một đống củi gỗ đã được chặt rất đều và khéo. Trông mới đáng tin cậy làm sao. Kết quả là ăn cũng rất bình thường, chỉ vào hàng tạm được. Thật thất vọng.
Quán xá Đà Lạt cứ thế trôi tuột đi trong tâm trí, chẳng để lại ấn tượng gì đặc sắc với tôi. Không thể nói là không buồn, vì có lẽ tôi đã kì vọng nhiều hơn thế.
Thế rồi, tôi được bạn dẫn đến một cái quán cafe có cái tên rất kì, La Fin. Thằng rồ nào lại đi đặt tên quán của mình là “kết thúc” vậy chứ, tôi đã nghĩ như thế. Cái quán đi vào cũng đến là ngoắt nghéo, nằm rất sâu trong một con hẻm nhỏ bé xíu, hai người đi bộ ngược chiều còn phải uốn éo tránh nhau mới đi qua được. Cái mặt tiền quán cũng nhỏ, tuyền là cửa kính khung gỗ, có bầy và treo khá nhiều cây. Bước qua khung cửa là một căn phòng nhỏ bình thường, nhưng đi tiếp, đi qua cả cái lối đi hẹp bên cạnh quầy bar, không gian chợt mở rộng ra thành một căn phòng lớn hơn, và gần như ngay lập tức, tôi như được một cỗ máy thời gian đưa về 20-30 năm trước. Căn phòng được trang trí chỉ bằng 3 tông màu: gỗ nâu, ghế bọc màu đỏ đun, và tường vàng – ba tông màu cực kì đặc trưng của quán xá Hà Nội những năm 90 theo trí nhớ của tôi (tất nhiên, sau này tôi cũng biết là đây cũng là những tông màu đặc trưng của các quán ăn theo phong cách bistro của Pháp và các nước vùng Địa Trung Hải, và vì thế nó đã có mặt trong các quán kiểu Pháp ở Hà Nội có lẽ là từ thế kỉ 19, nhưng thôi, tôi chỉ cần những thứ có trong trí nhớ của tôi). Ở giữa quán trưng bày một tổ hợp đầu máy chạy đĩa và giá đĩa CD trông rất đầu 2000, và từ chiếc đầu máy đó phát ra những âm thanh du dương của nhạc Jazz và French Pop. Toàn bộ không gian căn phòng đẫm đượi trong bầu không khí của Hà Nội những năm cuối 90 đầu 2000, cũng là khoảng thời gian tôi yêu thích nhất và vẫn luôn hằng nhung nhớ. Tôi ngồi đó, ngây ngốc, ngơ ngẩn, đắm chìm. Và gọi cho mình một thứ đồ uống đã lâu lắm rồi tôi chưa gọi, một cốc nâu nóng, bởi vì đó là thứ đồ uống tôi luôn uống trong những không gian như thế này.
Hà Nội những năm đầu 2000. Đi đâu cũng là nhà cổ. Con phố nào cũng rợp bóng cây cơm nguội già. Quán cafe nào cũng lãng đãng. Con người ai cũng hồn nhiên và dễ mến. Cuộc sống vừa nhanh, vừa chậm. Điện thoại di động nhắn tin chỉ được 160 (hay 180?) kí tự. Chổng mông lên đạp xe đạp. Ngồi bên Hồ Tây nghe French Pop. Lăn lộn ở cửa hàng DVD vừa chật vừa nóng mấy tiếng đồng hồ để chọn đĩa phim. Lên Puku ăn trưa, buổi chiều lại ngồi cafe ở La Place. Lúc tôi rời đi năm 2006, Hà Nội vẫn xinh xắn đáng yêu như thế. 2009 trở về nó đã biến mất hoàn toàn. Đến giờ tôi vẫn còn nhung nhớ, có những lúc, nhớ nó đến gào thét. Có làm cái gì cũng không thể tìm lại được nó nữa rồi…
Vậy mà hôm đó ở La Fin, tôi lại tìm được một góc của nó để hoài niệm. Quyến luyến đến nỗi chẳng muốn rời đi…
